Biển Nha Trang - Truyện ngắn của Thái Bá Tân

08/01/2005 16:02 GMT+7

Tôi vừa gặp ông lão nhà tôi đấy cô ạ. Người đàn bà ngồi bên không đáp. Mụ đang bận nhặt mớ rau muống già cho bữa cơm chiều. Qua ô cửa hẹp của căn phòng gác hai tường tróc loang lổ, những tia nắng vàng vọt yếu ớt rọi vào, khiến mụ, vốn mắt kém, cứ nhầm lẫn lá xanh với lá vàng. Vả lại, cái câu nói ấy nghe mãi rồi, đến chán không muốn nghe nữa. "Rõ lẩm cẩm! Chết thì chết quách đi cho xong, lại còn gặp với chả không. Cứ như uyên ương đang yêu nhau không bằng".

- Rồi sao nữa? Chắc hai cụ hú hí với nhau thích lắm nhỉ? - cuối cùng mụ lên tiếng châm chọc.

Mụ ít học, thô lỗ và tham lam, nhưng không hẳn là người độc ác. Hoàn cảnh bắt mụ trở nên như vậy. Mụ bán rau ở phố bên, có thằng con nghiện hút và lão chồng vừa vũ phu vừa nát rượu. Mụ được thuê trông coi bà lão hơn bảy mươi tuổi, đang ốm nằm chờ chết trên giường. Nghe nói bà lão bị ung thư gì đó, ở bệnh viện hơn hai tháng, sống bằng đủ các loại chai lọ và ống nhựa. Sau thấy tốn kém quá mà chẳng ích gì (riêng tiền giường đã hai trăm nghìn đồng một ngày), người ta đưa bà về nhà. Cứ tưởng rút mớ chai lọ và dây dợ kia là chết ngay, thế mà vẫn cứ sống, nghĩa là nằm bất động một chỗ, ăn uống tiêu tiểu một chỗ, và cũng ít khi tỉnh táo để nói những câu ngớ ngẩn như lúc nãy.

Ở nhà, người ta đã lo sẵn mọi thứ cho đám tang, phân công người nào làm việc gì, thế mà mãi người bệnh chẳng chịu chết cho, khổ cả mình lẫn người khác. Chắc bà lão cũng mong chết lắm. Trời không cho, đành chịu. Lúc đầu còn có người đến thăm hỏi chăm sóc, sau rồi thưa dần, thưa dần, cuối cùng còn lại mụ trông thuê này.

Bà lão chỉ có một anh con trai ngoài bốn mươi, vợ bỏ mang con đi theo. Còn chồng bà thì chết cách đây những ba chục năm. Anh con ở nhà trông mẹ được đúng một tuần thì bỏ đi làm, phần do công việc, phần quá mỏi mệt vì chờ đợi, vì căn phòng chật hẹp, nặng nề và nặng mùi. Anh ta đảo qua nhà mỗi ngày đúng hai lần vào buổi trưa và chập tối, mà cũng chỉ mấy phút, rồi đi ngủ đâu đấy ở nhà bạn, viện cớ bận. Mọi việc khoán trắng cho mụ bán rau. Tuy nhiên, mụ chẳng phải làm gì nhiều. Cái gọi là vệ sinh mụ chỉ làm qua quít, đủ để khỏi đến mức không chịu nổi. Còn ăn uống thì chẳng lo vì bà lão gần như không có nhu cầu. Quan trọng nhất là mụ phải luôn có mặt ở đây cả ngày lẫn đêm để khi bà chết thì gọi điện báo ngay cho anh con. Tuy vậy, mụ vẫn bỏ đi lo công chuyện riêng một vài giờ là thường. Lúc đầu mụ được thuê hai mươi lăm nghìn đồng một ngày, sau bắt bí lên bốn mươi nghìn mà anh con vẫn phải chịu. Mụ mừng có được việc làm nhàn nhiều tiền, lại khỏi bị ông chồng say đánh đập, miễn là đều đặn đưa tiền cho lão uống rượu. Thành ra mụ là người duy nhất mong bà lão sống lâu. Càng lâu càng tốt, nhưng không được khỏi bệnh để mụ mất việc.

- Tôi vừa gặp ông nhà tôi đấy, cô ạ - Bà lão lại nói, không hướng vào người nghe. Đây là lúc hiếm hoi bà tỉnh để có thể nói được, dù rất khó khăn.

- Thôi, cụ im đi cho khỏe - Mụ trông thuê thô lỗ đáp - Ông ấy chết từ đời tám hoánh nào, gặp quái được. Chỉ giỏi phịa.

- Không, tôi gặp thật mà. Gặp cái thời chúng tôi mới quen nhau ấy.

- Thế ông ấy nói gì với cụ?

- Chẳng nói gì cả. Chỉ lặng lẽ cởi quần áo của tôi thôi...

- Rõ dơ! - Mụ hàng rau nhăn mặt - Già chết đến đít mà còn đem chuyện khỉ ra kể í - Mụ cũng không hiểu vì sao tự nhiên mụ cáu kỉnh như vậy với bà già tội nghiệp đáng lẽ mụ phải mang ơn. Mụ còn trẻ, to béo, đang độ sồn sồn mà anh chồng nghiện ngập của mụ chẳng được tích sự gì - Rồi sau thì sao? Chắc thích lắm nhỉ?

Bà lão không nói nữa. Có thể vì phật ý. Cũng có thể vì lại thiếp đi hoặc đang chìm vào cái quá khứ xa xăm kia, khi chồng bà lần đầu làm cái việc bị mụ bán rau cho là "dơ" ấy.

***

Thời mới hòa bình, một đơn vị bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc đóng quân chừng một tháng ở làng Phúc Nhạn bên Kênh Nhà Lê. Cái làng nông thôn yên ả ấy một hôm bỗng trở nên sôi động hẳn lên khi đang đêm dân quân giải về một cô gái người làng và một anh bộ đội của đơn vị trên. Họ bị bắt quả tang "đang ngồi cạnh nhau trên Gò Chùa vào lúc mười một giờ rưỡi!".

Không biết anh kia thế nào, chứ cô gái thì bị cả tổ chức thanh niên và phụ nữ kiểm điểm suốt hai đêm liền. "Chúng tôi yêu nhau và không làm điều gì xấu cả", cô yếu ớt cãi lại. "Yêu nhau sao không xin phép đoàn thể? Không làm gì sao phải ra tận Gò Chùa, lại vào lúc đêm hôm khuya khoắt? Nhất định phải có chuyện!". Cô chẳng biết nói gì thêm. Mà có nói cũng không ai tin. Nhưng quả đúng họ yêu nhau, và tối ấy họ "không làm điều gì xấu". Thậm chí không dám cầm tay nhau. Còn cái chuyện "dơ" kia thì mãi sau này mới xảy ra, vào đêm hôm trước khi đơn vị bộ đội lên đường, cũng ở Gò Chùa, nhưng may không bị bắt gặp.

Đêm ấy hầu như chỉ mình anh nói, còn cô bẽn lẽn ngồi bên say sưa lắng nghe. Anh kể nhiều về quê hương anh ở Nha Trang với bãi biển cát trắng mịn, "Còn nước thì xanh biếc, em tin không, xanh trong đến mức có thể nhìn thấy cả từng viên sỏi sâu hàng chục mét dưới đáy!". Tất nhiên cô tin, và hình dung bãi biển Nha Trang của anh rất đẹp, đẹp hơn cả tờ tranh họa báo cắt dán trên tường nhà cô. "Hai năm nữa anh sẽ đưa em về làm dâu quê anh, và chúng ta sẽ tắm trên bãi biển ấy. Không phải mặc cả quần áo mà tắm như ở đây đâu. Mặc áo bơi kia. Em thích không?". "Thích. Nhưng thế thì ngượng lắm".

Quê cô cũng có biển, chỉ cách làng mấy cây số, nước cũng trong nhưng không xanh, còn bãi biển thì bẩn, đầy rác rưởi, phân trâu bò, đôi khi cả phân người. Cô chưa tắm biển bao giờ. Mặc áo bơi mà tắm lại càng không. Cô ngượng, nhưng bắt đầu thầm mơ ước có ngày được cùng anh tắm ở bãi biển Nha Trang thần tiên ấy.

Trong đầu óc chất phác của cô gái nông thôn chưa bao giờ đi xa quá phố huyện này đã hình thành ngày càng rõ nét bãi biển ước mơ của cô, với những hàng dừa cao vút tận trời, với nước biển xanh như màu mực viết của thằng bé nhà bên. Trời cũng xanh như thế. Nắng chói chang nhưng không gắt. Còn xa xa là chiếc cầu vồng rực rỡ đủ bảy màu như trong chuyện cổ tích. Cô biết trời nắng không có cầu vồng, thế mà lần nào nhắm mắt tưởng tượng, không hiểu sao cô vẫn thấy nó. Còn trên biển thì chẳng có ai ngoài cô và anh đang tắm, hạnh phúc như hoàng tử và công chúa. Chỉ những con cá nhỏ đủ màu lượn lờ quanh họ. Ước mơ ấy trở nên rất hiện thực, rất gần, tưởng có thể chạm tay vào được, và cô tin chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành công chúa sống bên hoàng tử của mình trên bãi biển Nha Trang.

Nhưng trong khi chờ được nếm mùi hạnh phúc, cô phải trải qua không ít khổ đau. Số là chỉ mấy tháng sau, cô bị đem ra cuộc họp chung của cả làng để mọi người xỉ vả về tội chửa hoang. Thời ấy tội này lớn lắm, trên tội ăn cắp, ngang tội giết người. Giết người, ăn cắp vào tù là yên, còn chửa hoang là vết nhục cả đời, của mình và cha mẹ, là cái gương xấu để người ta đem ra răn đe các cô gái trẻ. Lúc này người yêu cô đang ở xa, tận Tây Bắc.

Hay tin, anh viết ngay cho ủy ban xã một bức thư có xác nhận của đơn vị hẳn hoi, khẳng định họ thực sự yêu nhau và nay mai anh sẽ xin về phép làm lễ cưới. Làng không chịu, cứ kiểm điểm, cứ phạt, ít ra về tội dám "ăn cơm trước kẻng", "không phù hợp đạo đức cách mạng và con người mới!". Mức phạt là tạ nếp và con lợn sáu mươi cân để tạ tội dân làng. Thế là nhẹ, chứ thời trước còn bị đánh đòn, cắt tóc bôi vôi và phải luôn đeo hai chữ chửa hoang trước bụng. "May cho mày đấy. Không nhờ cách mạng thì còn khốn!".

Cô chỉ thương bà mẹ già phải mang nhục vì mình (bố cô chết từ lâu trước đó), tiếc tạ nếp cùng con lợn, chứ phần cô, cô dửng dưng không sợ gì. Cô còn cố tình ưỡn cái bụng chửa hoang trước mặt mọi người. Điều này suýt nữa khiến người ta tăng gấp đôi mức phạt. Cô tin ở anh và giấc mơ biển Nha Trang của hai người. Tiếc rằng anh, vì nhiều lý do, mãi gần một năm sau mới về được để cưới cô làm vợ, lúc đứa con đã ra đời nhưng cũng chết ngay sau đó. Anh đưa cô lên Điện Biên làm cấp dưỡng trong đơn vị mình. Họ sống ở đấy cho đến năm 1970, khi anh được chuyển về Hà Nội và phân căn phòng mười tám mét vuông ở khu phố cổ hiện nay.

Vậy là giấc mơ tắm biển Nha Trang của họ vẫn chưa thực hiện được. Họ hẹn chờ ngày đất nước thống nhất. Dẫu lúc ấy có thể đã già, nhưng họ vẫn sẽ là công chúa và hoàng tử, cùng nhau bơi trong làn nước xanh biếc có những con cá đủ màu vây quanh, có mặt trời ấm áp và cả chiếc cầu vồng rực rỡ như cô mong muốn. Họ sống vì nhau và vì ước mơ lãng mạn đó.

Tiếc thay anh không sống được đến năm bảy lăm để đưa vợ về thăm quê mình. Anh chết vào mùa đông 1972, vì một cơn nhồi máu cơ tim. Người con trai cô sinh ở Điện Biên lúc này đã lớn. Nếu muốn, nó có thể đưa cô đi, hoặc cô tự đi một mình cũng được. Nhưng một mình thì cô không muốn, vì điều ấy sẽ trở nên vô nghĩa. Trong ước mơ của cô luôn có hai người. Nay một người không còn, ước mơ ấy không còn nữa. Thực sự cô cũng không còn sống với đúng nghĩa của nó. Cô trở nên thờ ơ với mọi chuyện. Có thể vì thế mà cô đã không dạy dỗ đứa con duy nhất của họ đến nơi đến chốn chăng? Cô yêu con, tất nhiên, nhưng tình yêu ấy chẳng so được với tình yêu của vợ chồng cô cùng mơ ước biển Nha Trang của họ.

***

- Tôi lại gặp ông nhà tôi đấy, cô ạ - Bà lão lại khẽ cựa mình - Chắc bà không biết và cũng chẳng muốn biết người đang nghe là ai.

Mụ hàng rau lúc này đang ăn vụng sữa của người bệnh, giật mình, vội chùi mép, nhẹ nhàng đặt hộp sữa đặc vào chỗ cũ. Mụ khó chịu, nói:

- Gặp gì mà nhiều thế. Lại ôm ấp nhau nữa chứ gì?

- Không. Tôi và ông ấy bay trên biển Nha Trang...

- Còn vào tận đấy để bay lượn với nhau! Khéo vẽ chuyện. Thích chứ? - Mụ mỉa mai, thầm hình dung bộ xương già khô héo đang chờ chết trên giường bay như thế nào giữa bao la trời biển.

- Thích lắm. Biển đẹp lắm. Chỉ toàn màu xanh và màu hồng. Cả đàn cá cũng bay với chúng tôi. Chúng tôi bay, bay mãi, cuối cùng ông ấy đỡ tôi ngồi lên chiếc cầu vồng sát chân trời. Sợ, nhưng mà thích lắm. Đẹp lắm cô ạ...

"Bà này điên mất rồi!", mụ kia lẩm bẩm, rồi yên tâm cầm hộp sữa, mút chùn chụt.

Mặt trời còn lâu mới lặn, nhưng căn phòng nhỏ với chiếc cửa sổ duy nhất ngoảnh ra phố không đủ ánh sáng. Tiếng người rao tào phớ từ dưới đường vọng lên nghe vừa buồn cười, vừa não ruột. Mụ trông thuê bật đèn, đang định bỏ ra ngoài thì bà lão khẽ gọi:

- Này cô!

- Lại chuyện gì nữa? Tè ra quần à? Chốc nữa thay luôn thể! - Mụ xẵng giọng đáp.

- Không, tôi muốn nhờ cô việc này.

- Việc gì?

- Cô làm ơn lấy hộ tôi chiếc lọ trên bàn thờ.

- Lọ nào?

- Chiếc lọ sứ màu đen, có nắp ấy. Cô đưa nó lại đây cho tôi.

Không biết bà lão cần nó làm gì, nhưng tò mò, mụ cũng làm theo. Chiếc lọ to bằng quả dưa hấu và khá nặng. Nghi bên trong có thể có đồ quý, mụ mở nắp cho tay vào sờ, nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy tờ vàng mã và lưng lọ tro không mịn lắm.

- Cái quái gì thế này? - Mụ hỏi khi trao chiếc lọ cho bà lão. Mụ còn ngạc nhiên hơn khi thấy bà lão ôm chặt nó vào ngực. Trên khuôn mặt nhăn nheo xuất hiện hai giọt nước mắt lớn màu đục. Bà vừa đưa cả hai tay xoa xoa khắp chiếc lọ, vừa mấp máy môi nói gì đó mụ nghe không rõ. Rồi bà mở nắp lọ, lấy ra một nhúm tro, áp vào miệng. Thấy chiếc lọ nặng có thể làm bà lão nghẹt thở, vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, mụ kia vội giằng lấy nó, đặt lên bàn thờ như cũ.

- Bây giờ cô muốn đi đâu thì đi! - Bà lão yếu ớt nói rồi lại nằm thiếp đi, nét mặt thư thái.

***

... Đó là chiếc lọ đựng ít tro hài cốt của chồng bà. Không biết trước đó hai người có dặn dò gì nhau không, nhưng khi chồng chết, bà lão khăng khăng đòi thiêu xác. Thời ấy chưa có lò thiêu hiện đại như bây giờ. Hơn thế, bà còn bắt phải cho một ít tro vào lọ để lên bàn thờ. Mọi người phản đối kịch liệt, đặc biệt anh con, với lý do như thế là điềm gở, có thể mang tai họa cho cả nhà. Cuối cùng mọi người vẫn phải nghe theo. Suốt mấy chục năm nay ngày nào bà cũng thắp hương, thì thầm trò chuyện với chồng, lần nào cũng không quên chạm tay vào chiếc lọ.

Một hôm có ông khách đến chơi. Vừa bước vào nhà, ông ta đã nhíu mũi đưa mắt nhìn quanh: "Tôi thấy trong nhà này có sự hiện diện của người chết!". Bà lặng lẽ chỉ tay vào chiếc lọ trên bàn thờ. Ông kia hiểu, khuyên bà nên đem chôn. Anh con nhân chuyện này càng thúc ép mẹ nhưng bà một mực không chịu. Mọi người bảo chính vì thế mà gia đình bà sa sút. Đứa con trai không hư nhưng cũng chẳng ngoan. Công việc làm ăn trầy trật. Đường vợ con chẳng ra gì. Bản thân bà thì ốm đau luôn. Nhưng bà không tin tất cả đều do chiếc lọ ấy, và cứ bắt giữ nó trong nhà cho đến tận bây giờ.

***

Sáu giờ tối anh con trai mới đến thăm mẹ. Mụ trông thuê vẫn đi đâu chưa về. Anh ta gắt om lên, rồi quay sang hỏi, vồn vã một cách thiếu tự nhiên:

- Mẹ có đỡ hơn không ạ? Mẹ đã ăn gì chưa? Bây giờ mẹ thấy trong người thế nào?

Bà lão nằm yên, mở mắt và khẽ gật đầu. Anh con đã mấy lần khịt khịt mũi vẻ khó chịu, nhưng vẫn cố nán thêm chốc nữa, sốt ruột đi đi lại lại.

- Mẹ có cần con làm gì không ạ?

Bà lão muốn ngồi dậy nhưng không được, bèn ra hiệu kê thêm chiếc gối cho đầu cao lên.

- Con lấy ghế ngồi xuống đây. Mẹ có chuyện này muốn nói với con.

- Dạ, có gì xin mẹ cứ nói.

- Có lẽ mẹ sắp đi rồi. Mẹ muốn con hứa với mẹ một điều. Con hứa và sẽ làm đúng như thế. Con có hứa không?

- Có. Con xin hứa sẽ làm tất cả những gì mẹ dặn - Anh con vội đáp, lần này thì thành thật vì biết đây là lời trăn trối cuối cùng của mẹ.

- Kia là chiếc lọ với ít tro hài cốt bố con - Bà lão chỉ tay về phía bàn thờ - Bố con là người tuyệt vời. Chỉ tiếc bỏ mẹ con mình ra đi sớm quá. Mẹ muốn sau khi chết, con cho thiêu xác rồi trộn tro hài cốt của mẹ với của bố. Sau đó con đem vào quê bố, đi thuyền ra biển thật xa rồi rắc xuống nước. Suốt đời mẹ và bố con chỉ ước được cùng nhau tắm biển Nha Trang, nhưng rồi con biết đấy, vì chiến tranh, vì bố con đi trước, nên ước mơ ấy chưa thực hiện được. Giờ chỉ còn cách như mẹ nói. Vì vậy mẹ mới giữ chiếc lọ kia trong nhà bao năm nay. Chỉ thế thôi. Con giúp mẹ nhé. Nếu không, mẹ sẽ chẳng thể nào nhắm mắt nổi.

Anh con nâng bàn tay khô héo của mẹ áp vào má mình. Lúc này thực tình anh ta rất thương mẹ.

- Xin mẹ yên tâm. Con sẽ làm đúng lời mẹ dặn.

- Thế thì mẹ chẳng còn mong gì nữa. Bây giờ con có thể đi được rồi. Cứ để mẹ một mình, không sao.

- Không, không, hôm nay con sẽ ở lại đây suốt đêm với mẹ - Anh con vội nói, xúc động và chân thành.

Bà lão quay người, nhắm mắt, có vẻ như lại ngất xỉu.

Cuối cùng mụ bán rau cũng về, bị trách mấy câu lấy lệ. Anh con nấn ná thêm chốc nữa rồi bảo ra ngoài ăn tối, lát sau quay lại. Nhưng vốn vô tâm, hời hợt, dễ xúc động và cũng dễ quên, anh ta đi rồi biệt tăm luôn.

***

Đêm hôm ấy bà lão chết. Chính xác lúc nào không rõ, vì như mọi ngày, mụ trông thuê ngủ liền một mạch đến năm giờ sáng thì dậy. Theo thói quen, mụ đặt một ngón tay lên mũi bà lão. Không thấy thở. "Thôi, bỏ mẹ. Bà ta chết rồi!". Và mụ vội vã chạy đến chiếc máy điện thoại.

Xác bà lão được thiêu như mong muốn. Còn trộn tro hài cốt hai người để rắc xuống biển Nha Trang thì không, vì đã mười năm nay anh con giấu mẹ đem tro thi hài bố chôn thành mộ ở Bát Bạt. Còn tro trong chiếc lọ trên bàn thờ là đồ giả. Bà lão được chôn cạnh chồng. Hai ngôi mộ xinh xắn, có bia đá, có ảnh, và đều được đổ xi măng chắc chắn. Anh con lấy thế làm hài lòng, tự coi mình là người con có hiếu. Đôi khi cũng thấy lương tâm cắn rứt vì không làm đúng lời mẹ trăn trối, nhưng anh ta luôn tìm được lý do để an ủi mình: "Các cụ già mà còn lãng mạn. Quăng xuống biển cho cá nó ăn à? Rồi sau con cháu biết tìm đâu mà hương khói ?!"...

Thái Bá Tân

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.